Lời khuyên cho Nguyễn Lương Tuyền
Bịa đặt, xuyên tạc nhằm bôi nhọ và xúc phạm danh dự, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thủ đoạn thâm độc, xấu xa của các thế lực thù địch. Mới đây trên trang mạng Danlambao, Nguyễn Lương Tuyền với bài viết: “Bàn về điều mà CSVN “gọi là” tư tưởng Hồ Chí Minh sự thực? hay sản phẩm của dối trá, lường gạt, bịp bợm”, Nội dung bài viết đã có những luận điệu sai trái, xuyên tạc khi nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ nhất, với tiêu đề trên đã cho thấy, Nguyễn Lương Tuyền không chỉ xúc phạm những người đang sống mà còn xúc phạm chính những người cha, người chú của mình đã hy sinh xương máu để giành lấy nền hòa bình, tự do, độc lập. Nếu là người có lương tâm, Nguyễn Lương Tuyền phải biết rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người đã hy sinh cả cuộc đời mình cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Người đã trải qua bao khó khăn, gian khổ, bôn ba đi khắp thế giới để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Công lao to lớn của Người không chỉ được các thế hệ người Việt Nam ghi nhận mà thế giới đã thừa nhận vinh danh. Điều này được minh chứng, năm 1987 Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã tổ chức kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và công nhận Người là Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.
Theo Nghị quyết của UNESCO: “Nhận thấy những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật chính là sự kết tinh của truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, và những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc[1]”. Trong Từ điển Danh nhân văn hóa thế giới xuất bản tại Anh và Mỹ, cũng đã ghi rõ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn cờ đầu của phong trào giải phóng dân tộc. Người đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam cùng hàng triệu người nô lệ ở hơn 100 nước trên thế giới vùng lên giành độc lập tự do, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng là Danh nhân văn hóa của nhân loại trong thế kỷ XX.”
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa khái niệm rất ngắn gọn, xúc tích và đầy đủ về tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hoá nhân loại.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang chứng minh hùng hồn cho cả thế giới biết, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự đúc kết từ thực tiễn và được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm là hoàn toàn đúng đắn, điều này được minh chứng bằng những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng đất nước trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, đất nước ta tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã khẳng định rõ, tư tưởng Hồ Chí Minh không bao giờ là thứ “thuổng, mượn tạm không hoàn trả, không ghi rõ xuất xứ” như lời xuyên tạc của Nguyễn Lương Tuyền.
Tóm lại, luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Lương Tuyền là hành vi bất nhân, bất nghĩa, vô ơn với lịch sử, vì mục đích thấp hèn, và sẽ không bao giờ lừa gạt được người dân Việt Nam. Tôi thành thật khuyên Nguyễn Lương Tuyền làm người phải có lương tâm, hãy sống cho tử tế, biết tôn trọng sự thật, đừng bán rẻ lương tâm, làm điều vô đạo đức, hãy để lại chút phúc đức cho con cháu của mình./.
——-
[1] Bản dịch của Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam về Nghị quyết của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng tại http://nhandan.com.vn/chinhtri/tin-tuc-su-kien/item/18372502-.html, truy cập ngày 05/12/2017.
Những luận bàn của Nguyễn Lương Tuyền thật xấu xa vì nó đi trái với lương tâm của một con người biết suy nghĩ!
ho chi minh la toi do cua dan toc vn.
ho chi minh giet vo.
ho chi minh cuop chinh quyen cua chinh phu tran trong kim.
TẠI SAO DÂN VIỆT NAM GỌI
ĐẢNG CSVN LÀ ĐẢNG CƯỚP, HỒ CHÍ MINH LÀ HỒ TẶC?
Lê Duy San
Trong bài “Nếu dân Việt chọn một đảng chính trị” đăng trên Người-Việt Online, ông Ngô Nhân Dụng viết “Một đảng chính trị là của những đảng viên họ đồng ý với nhau về mục tiêu giành lấy quyền hành để cai trị theo chủ trương của họ.” Dĩ nhiên cái chủ trương ấy là một cái chủ trương mà mọi đảng viên của họ cho là tốt đẹp và được nhiều người dân ủng hộ thì họ mới giành được quyền hành. Cũng như một chính trị gia, muốn thành công không những phải là người có khả năng ăn nói mà ngay cả những chương trình tranh cử của người ấy cũng phải thu hút được sự ủng hộ đông đảo của quần chúng, Vì thế, ngay cả đảng Cộng Sản Việt Nam, là một đảng duy nhất nắm quyền cai trị, nhưng trong cương lĩnh của đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như những chính sách mà chúng đem ra áp dụng cũng phải dựa vào long dân với những chủ trương tốt đẹp như: Cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng ruộng đất, xã hội tự do, nam nữ bình quyền, v.v…trong cương lĩnh của đảng năm 1930 và xã hội công bằng, do nhân dân làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân v.v…trong cương lĩnh của đảng năm 1991.
Ấy vậy mà tại sao đảng Cộng Sản Việt Nam lại bị gọi là đảng cướp? Và tại sao ông Hồ Chí Minh, người sáng lập ra đảng Cộng sản Việt Nam lại bị nhân dân Việt Nam gọi là Hồ Tặc ( Hồ Tướng Cướp) ?
Mặc dầu chữ “Cướp chính quyền” không những đã được nhân dân Việt Nam dùng khi đảng Cộng Sản Việt Nam núp dưới hai chữ Việt Minh để đoạt chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình Hà Nội mà chính đảng Cộng Sản Việt Nam cũng dùng mấy chữ này trong các sách vở và tài liệu. Mặc dầu trong chiến dịch cải cách ruộng đất 1954, đảng Cộng Sản Việt Nam đã cướp của ( tài sản và đất đai) của các điền chủ và chính bọn chúng đã giết chết hơn 170 ngàn người dân vô tội chỉ vì có vài sào ruộng hay vài mẫu ruộng. Tết Mậu Thân năm 1968, chỉ vì không cướp được miền Nam, đảng Cộng Sản VN đã hạ lệnh giết chết trên 5 ngàn người vô tội ở Huế. Cho tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhân dân Việt Nam vẫn chưa ai gọi đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng Cướp là tại sao ? Bởi vì bọn Cộng Sản Việt Nam trước năm 1954 dưới chiêu bài “Chống thực dân Pháp để giải phóng dân tộc” và sau này, trước năm 1975, với chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước”, vẫn che dấu được cái bộ mặt tay sai của Cộng San Quốt Tế là Liên Sô và Trung Quốc, vẫn bịp bợm và lừa gạt được nhân dân Việt Nam là chỉ có chúng mới là người có công giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Vì thế nhiều người vẫn tưởng rằng chúng có chính nghĩa và những tội cướp của giết người mà bọn chúng chúng làm là đúng.
Nhưng sau tháng 4 năm 1975, đảng CSVN đã cướp 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam đem về bắc chia nhau. Với những chính sách đổi tiền, mỗi gia đình chỉ được phép đổi có 100ngàn đồng tiền VNCH để lấy $200 tiền VC cũng như chính sách đánh tư sản mại bản, chính sách kinh tế mới, đảng Cộng Sản VN đã cướp trắng trợn không biết là bao nhiêu tiền bạc, của cải, nhà cửa của đồng bào miền Nam và cũng kể từ đó, đảng Cộng Sản Việt Nam đã được nhân dân miền Nam gọi là đảng Cướp, thật không sai chút nào. Ngày nay chúng (bọn CSVN) còn cướp cả đất đai của các tôn giáo như Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Tin Lành v.v…và đất đai của nhân dân cả hai miền Nam, Bắc vì thế mới có những vụ giáo dân xứ Thái Hà biểu tình phản đối ở Hà Nội, giáo dân Tam Tòa mit tinh cầu nguyện ở Vinh, vụ dân oan khiếu kiện ở Saigon v.v…
Trên đây chỉ là mấy vụ điển hình, nhưng hành vi cướp của, giết người của đảng CSVN rõ ràng và có ghi vào sử sách. Ngoài ra còn không biết bao nhiêu những vụ cướp của, giết người khác mà đảng CSVN đã thi hành một cách dấu diếm như thủ tiêu, thanh toán hoặc đổ cho người quốc gia hoặc đảng phái đối lập. Ngay cả những người đã nghe theo lời dụ dỗ của bọn chúng, đem tiền về làm ăn, chúng cũng không tha, nhiều người còn bị chúng bỏ tù trước khi cướp hết tài sản. Vụ gần đây nhất là vụ Bát Nhã Làng Mai ở Lâm Đồng.
Qua những sự kiện trên, đảng CSVN đã lộ nguyên hình là một đảng Cuớp không những đúng nghĩa là một đảng cướp. mà còn là một đảng cướp dã man và tàn bạo nhất thế giới. Thực vậy, các đảng cướp, thường chỉ cướp của, ít khi chúng giết người, trừ trường hợp bất khả kháng. Nhưng đảng CSVN, sau khi cướp của, nếu chúng không giết thì cũng bỏ tù.
Khi một đảng được gọi là đảng cướp, thì thủ lãnh của đảng cướp phải là một tướng cướp. Đảng CSVN đã là một đảng cướp, thì thủ lãnh của đảng CSVN, tức Hồ Chi Minh phải là một tướng cướp. Do đó người dân Việt Nam thường gọi Hồ Chí Minh là Hồ Tặc, nhiều người còn gọi ông Hồ là Dâm Tặc. Điều này thật cũng không có gì là quá đáng vì chính Hồ Chí Minh cũng đã từng cướp của giết người. Thực vậy, năm 1945, sau khi cướp được chính quyền, ông Hồ tổ chức một tuần lễ vàng, lấy lý do là để mua khí giới. Nhưng ông Hồ đã cướp đi số vàng này đem hối lộ tướng Tầu là Lữ Hán để y không cung cấp vũ khi cho các đảng phái quốc gia VN. Ngoài vụ cướp số vàng này, số vàng của nhân dân cúng để mua vũ khí chống Pháp, ông Hồ còn phạm tội giết người, đó là giết Nông Thị Xuân, một người làm của ông để che dấu tội lợi dụng quyền hành để hãm hiếp người làm tới có con.
Không những cướp của, giết người, ông Hồ còn cướp cả vợ của đàn em là Nguyễn thị Minh Khai, vợ của Lê Hồng Phong và cướp cả trinh tiết của không biết bao nhiêu là cháu ngoan Bác Hồ. Trong bài “Lần gặp bác Hồ, tôi bị mất trinh”, chị Huỳnh Thị Thanh Xuân ở Quảng Nam cho biết, năm 1964, chị và một số các em thiếu nhi tuổi vào khoảng 14, 15 được cơ quan và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cho ra Bắc thăm bác Hồ. Khi gặp bác, bác đã ôm hôn mỗi ngưới một cái. Riêng chị, bác không những đã hôn môi chị mà lưỡi của bác còn ngoáy ngoáy trong miệng của chị. Sau chị đã được bác dẫn tới phòng chiếu phim để coi phim cùng mọi người. Chị được ngồi cạnh bác. Một tay bác choàng lên vai chị còn tay kia bác xoa lên bộ ngực mới lớn của chị và tối hôm đó, chị đã được đưa tới phòng riêng của bác. Gặp chị, bác như con hổ đói và bác đã cướp đi mất cái trong trắng và qúi giá nhất của đời người con gái của chị.
Một bạn trẻ, anh Huỳnh Ngọc Thiên Trường, sinh ngày 22/12/1981, hiện đang sinh sống tại Saigon, trong bài “Cuộc cách mạng thanh niên trí thức sẽ bùng lên” đã viết như sau: “Chắc các bạn cũng đã nhận thấy rõ, cho đến nay thì cả Đảng Cộng Sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCNVN hiện nay đã hiện nguyên hình là một bọn cướp. Dân oan khắp nơi cùng quẫn đành đổ về Hà Nội và TP.HCM biểu tình, vì bản thân và gia đình họ bị cướp trắng hết đất đai, nhà cửa, nhưng tất cả hành động biểu tình ôn hòa của họ đều bị đám công an côn đồ đàn áp thẳng tay. Người dân làm lụng lam lũ cực khổ để đóng thuế nuôi bọn công an, để rồi đến lượt chúng ra tay giết chính chúng ta một cách tàn nhẫn, dã man như vậy hay sao?
Tóm lại, đảng CSVN đúng là một đảng Cướp và Hồ Chí Minh đúng là Hồ Tặc. Trong lịch sử thế giới, nói chung, lịch sử Việt Nam, nói riêng, chưa hề có một đảng chính trị nào bị gọi là đảng cướp và cũng chưa hề có một vị Vua nào hay một vị Tổng Thống nào bị chính dân của mình gọi Tặc trừ đảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ Chí Minh. Không những thế, ngày nay, nhiều người còn gọi Hồ Chí Minh là Thằng, thằng Hồ Chí Minh và coi lăng của ông Hồ Chi Minh như một cái cầu tiêu và ông Hồ Chí Minh như cái bộ phận sinh dục của người đàn ông như trong bài thơ sau:
Một năm hai thước vải thô,
Nếu đem may áo cụ Hồ ló ra.
May áo thì hở lá đa,
Chị em thiếu vải hoá ra lõa lồ.
Vội đem cất ảnh bác Hồ,
Sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm.
Trong bài “Việt Nam, 70 năm dưới thể chế cướp bóc”, Võ thị Hảo, một nhà văn trong nước viết : “Trên đời này có nhiều loại cướp bóc nhưng không loại cướp bóc nào có thể hủy hoại cả một đất nước như loại dùng thể chế chính trị và bộ máy chính quyền làm công cụ cướp đoạt của người dân. Bao đau thương khổ nạn của loài người cũng chủ yếu từ đó mà ra.”
Bùi Tín, Nguyên Thượng tá Quân đội Nhân dân, Phó Tổng Biên Tập báo Nhân dân của đảng Cộng Sản Việt Nam cũng nói: “Trong các văn kiện chính trị của đảng CSVN từ trước đến nay còn lưu giữ, chữ “cướp chính quyền” được hãnh diện lặp đi lặp lại rất nhiều lần, trong sách vở, báo chí và qua lời Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp v.v… mà chữ “cướp” thì ai cũng biết có hàm ý rất xấu xa. Cướp là cướp bóc, tước đoạt của cải của người khác, không phải của mình. Người ta thường gọi “kẻ cướp”, “bọn cướp”, “lũ cướp”, “đồ ăn cướp”. Vậy thì lānh đạo CSVN đâu phải là làm cách mạng mà họ tự khẳng định, hiện nguyên hình là một lũ cướp ngày, một băng đảng Mafia “đỏ” bất lương vô đạo giữa thế giới văn minh.”(VOA 27.08.2015)
Vậy mà bọn Cộng Sản Việt Nam vẫn luôn luôn hô hào phải học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, và phải noi theo đạo đức Hồ Chí Minh. Thảo nào bọn Cộng Sản VN càng học tập tư tưởng HCM bao nhiêu và noi gương đạo đức HCM bao nhiêu thì bọn chúng lại càng tham nhũng, gian ác, dối trá, đồi bại và hủ hoá bây nhiêu.
Lê Duy San
VIỆT CỘNG LÀ BỌN LÍNH ĐÁNH THUÊ
Lê Duy San
Trong chiến tranh Việt Nam, bọn Cộng Sản Hà Nội tuyên truyền rằng lính Việt Nam Cộng Hòa là lính đánh thuê cho Mỹ vì chính Mỹ đã trả lương cho lính Việt Nam Cộng Hòa để đánh lại Quân Đội Nhân Dân của Hà Nội. Sự tuyên truyền này của Việt Cộng không phải chỉ có người dân quê ít học mới tin, mà ngay cả một số lớn sinh viên, trí thức cũng tin theo. Nhục nhất là ngay cả Nguyễn Cao Kỳ, một tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hòa, đã từng làm Chủ Tịch Ủy ban Hành Pháp Trung Ương, một chức vụ như Thủ Tướng và Phó Tổng Thống thời đệ nhị VNCH cũng không ngượng miệng khi tuyên bố rằng quân đội VNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore… Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”.
Gần đây, chúng ta lại thấy ở Việt Nam có một đền thờ to lớn thờ tên Việt Cộng Lê Duẩn mà trên cổng chính của đền thờ có khẩu hiệu như sau: “Ta đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”
Vậy thì ai là linh đánh thuê ? Quân Đội VNCH hay Quân Đội Nhân Dân của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ?
Đền thờ Lê Duẩn, Thủ Lãnh bọn lính Việt Cộng đánh thuê
I/ Lính đánh thuê là lính gì ?
Lính đánh thuê là những người được một nhóm người hay chính phủ của một nước thuê mướn để tham gia vào một cuộc xung đột vũ trang ở trong nước của họ hoặc để tham chiến ở một nước khác là thuộc địa của chính phủ nước thuê mướn. Lính đánh thuê có thể là các loại cựu quân nhân hoặc người thường do của các công ty chuyện đào tạo lính đánh thuê cung cấp. Lính đánh thuê cũng có thể là quân nhân thuộc biên chế chính thức của một nước. Ngày nay, hầu hết lính đánh thuê đều do các công ty quản lý và họ được thuê từ các chính phủ cần dẹp phiến loạn, hoặc để ổn định tình thế tại một khu vực quan trọng nào đó trong nước mà chính quân đội của họ không làm được. Lính đánh thuê thường không tham gia kiểu đánh quy mô mà thường chỉ đi từng nhóm nhỏ vàđược dùng để chiến đấu trong những sứ mạng đặc biệt.
Trong lịch sử quân sự thế giới, những đội quân đánh thuê xuất hiện từ rất sớm. Thời đế quốc La Mã đã có các binh đoàn lính đánh thuê người Sparta. Tại Pháp, việc tuyển mộ lính đánh thuê người nước ngoài đã có từ thế kỷ 12 dưới triều vua Philippe Auguste dưới hình thức “những đại đội tự do”. Đội quân Lê dương Pháp ra đời năm 1831 là đội quân đánh thuê chuyên nghiệp, nhưng nó có đặc điểm riêng là ra đời nhằm phục vụ những cuộc chiến tranh xâm lược và bảo vệ những thuộc địa của Pháp.
II/ Quân đội VNCH hay Quân đội Nhân Dân là lính đánh thuê ?
Ngày 7-7-1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm về nước. Ngày 24/9/1954 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thành lập nội các. Nội các của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm gồm có:
-Ngô Đình Diệm, Thủ Tướng kiêm Nội Vụ và Quốc Phòng,
-Trần Văn Chương, Quốc Vụ Khanh,
-Trần Văn Đỗ, Tổng Trưởng Ngoại Giao,
-Trần Văn Của, Tổng Trưởng Tài Chánh và Kinh Tế,
-Nguyễn Tăng Nguyên, Tổng Trưởng Lao Động và Thanh Niên,
-Trần văn Bạch, Tổng Trưởng Công Chính,
-Phạm Hữu Chương, Tổng Trưởng Y Tế và Xã Hội,
-Phan Khắc Sửu, Tổng Trưởng Canh Nông,
-Nguyễn Dương Đôn, Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục,
-Trần Chánh Thành, Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng,
-Lê Quang Luật, Thông Tin,
-Phạm Duy Khiêm, Công vụ Phủ Thủ Tướng,
-Nguyễn Ngọc Thơ, Nội Vụ,
-Lê Ngọc Chấn, Quốc Phòng,
-Hồ Thông Minh, Thứ Trưởng Quốc Phòng,
-Bùi Văn Thinh, Tư Pháp,
-Nguyễn Văn Thoại, Kinh Tế,
Năm 1955, Quân đội Pháp hòan tòan rút ra khỏi miền Nam Việt Nam và trao trả hoàn toàn chủ quyền độc lập cho VN. Ngày 26-10-1956 nước VIỆT NAM CỘNG HOÀ ra đời và được Hoa Kỳ cũng như các nước trong thế giới tự do công nhận.
Hoa Kỳ viện trợ cho VNCH vì muốn giúp cho miền Nam VN đủ sức chống lại sự bành trướng của Cộng Sản và bảo vệ nền độc lập cùng lý tưởng tự do cho miền Nam Việt Nam. VNCH không phải là thuộc địa của Hoa Kỳ vì thế nói quân đội VNCH là lính đánh thuê cho Hoa Kỳ là hòan tòan không đúng. VNCH cũng không hề được Hoa Kỳ yêu cầu đem quân đội tới Hoa Kỳ để ổn định tình thế tại một khu vực nào tại Hoa Kỳ hay chiến đấu tại một nước nào thuộc quyền kiểm soát của Hoa Kỳ.
Hơn nữa, năm 1974, Trung Cộng đánh chiếm Hòang Sa của Việt Nam, Hải quân VNCH đã anh dũng chống trả, nhưng bọn Việt Cộng Hà Nội cũng không hề lên tiếng phản đối.
Vậy không thể nói quân đội VNCH là lính đánh thuê cho Mỹ. Chỉ có bọn bọn Việt Cộng, bọn Việt Gian Cộng Sản và bọn người vô ý thức, trong đó có ông Nguyễn Cao Kỳ mới nói như vậy.
Hai tên Thủ Lãnh bọn lính đánh thuê Việt Cộng: HCM và LD
Trái lại, quân đội nhân dân của bọn Việt Cộng Hà Nội nghe theo quan thầy Liên Sô, Trung Cộng xâm chiếm miền Nam VN tức VNCH không phải là để bảo vệ lãnh thổ mà là để thi hành nghĩa vụ quốc tế của đảng Cộng Sản Nga Tầu. Chính Lê Duẩn, nguyên Tổng Bí Thư của đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói: “Ta đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc” và “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cho cả nhân loại. Năm 1976 Lê Duẫn ngang nhiên áp đặt Chủ Nghĩa Cộng Sản lên đầu toàn dân VN, đổi tên đảng Lao Động (lừa bịp dân lúc trước vì dân không thích cộng sản) thành đảng Cộng Sản Việt Nam. Lê Duẩn nói “” Ta đã thành công trong việc cắm lá cờ Mác-Lê trên toàn cõi Việt Nam”.
Trong một bài phân tích về “ Tổ Quốc Ghi Ơn hay Tổ Quốc Ghi Công”, ông Đặng Xương Hùng, một cựu Tham Vụ Ngoại Giao của Toà Đại Sứ Việt Cộng tại Thụy Sĩ, đã từ bỏ thiên đường CSVN để xin tỵ nạn tại Thuỵ Sĩ viết :
“Trên bia mộ của những người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là “Tổ quốc ghi ơn” thì bên phía quân đội cộng sản (QĐCS) lại ghi là “Tổ quốc ghi công”. Có gì khác biệt không ? Nếu nhìn sơ qua thì không có gì cả. Còn nếu nghiên cứu tiếng Việt thì nó lại khác. Trong tiếng Việt thì “công” và “ơn” khác nhau hoàn toàn. Công mô tả người ta thuê ai đó làm việc thuê cho chủ và được trả công. Nó đơn thuần là chuyện mua bán, làm thuê và trả thù lao sòng phẳng, không có ơn nghĩa gì cả. Trong khi đó Ơn lại là một khái niệm rất sâu: ơn nghĩa, ân tình. Mà ân tình và ân nghĩa không thể trả bằng thù lao vật chất được. Đó là ơn nghĩa sâu nặng mãi mãi.
Rõ ràng chỉ cần hai sự so sánh đó đã thấy nhà nước VNCH tôn trọng người lính hy sinh vì nước đến mức nào, trong khi đó nhà cầm quyền cộng sản lại coi người lính quân đội QĐCS chỉ là quân đánh thuê cho đảng, chết rồi thì trả công mà thôi. Vì thế mà cũng không có lạ khi QĐCS có tôn chỉ “trung với đảng” đầu tiên, trong khi đó những người lính VNCH lại đặt tổ quốc lên hết với khẩu hiệu “Tổ quốc, danh dự, trách nhiệm”.
Tóm lại, rõ ràng quân đội Nhân Dân của bọn Việt Cộng Hà Nội là lính đánh thuê cho Liên Xô, cho Trung Quốc đúng như lời Lê Duẩn, Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói. Lời nói đó đi vào lịch sử và đã để lại ô nhục ngàn năm cho đảng CSVN và cho chính Lê Duẩn. Lời nói của Lê Duẩn, Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam đã nói lên bản chất và mục tiêu thực sự của cuộc chiến Việt Nam không phải là “cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam” như bọn Việt Cộng đã rêu rao mà chỉ là một cuộc chiến ý thức hệ. Bọn Việt Cộng đánh cho Liên Xô để bành trướng đế quốc CS khắp toàn cầu theo chủ trương của Cộng Sản quốc tế. Ðánh cho Trung Cộng để mở rộng bờ cõi Ðại Hán xuống khắp vùng Ðông Nam Á theo ý đồ của đảng Cộng Sản Trung Quốc. Ðoàn quân dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN rốt cuộc chỉ là một bọn lính đánh thuê không hơn, không kém. Vì thế khi cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam, chúng đã hiện nguyên hình là một bọn ăn cướp. Cướp cho bõ những năm tháng thiếu thốn tại miền Bắc vì phải dồn sức cho cuộc chiến miền Nam. Cướp cho bõ những tháng ngày đói khổ trong các cánh rừng xâu thẳm hay trên dãy Trường Sơn cao vút, chỉ sống bằng những khẩu hiệu hoang đường hay những hứa hẹn viển vông.
Đúng lý ra thì những của cải cướp được này, nhất là 17 tấn vàng của ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, bọn Việt Cộng phải trao cho quan thầy của chúng là Liên Sô và Trung Quốc. Nhưng bọn chúng đã chia nhau tẩu tán. Vì thế, Trung Cộng đã phải dậy cho chúng một bài học vào năm 1979 trong trận chiến biên giới Việt Trung và 1988 trong trận hải chiến Hòang Sa. Đây cũng là một bài học cho bọn lính đánh thuê nói chung và bọn Việt Cộng nói riêng; đừng tưởng rằng sau khi chiến thắng thì có thể quên thân phận kẻ đánh thuê của mình và muốn làm gì thì làm.
Thật tội nghiệp cho những người lính thuộc Quân Đội Nhân Dân của cái gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa hay Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, xung phong vào bộ đội, vượt dẫy Trường Sơn để làm cái nhiệm vụ do bọn Việt Cộng đầu sỏ tuyên truyền là “giải phóng miền Nam” cho đến lúc chết cũng không biết mình chỉ là tên lính đánh thuê cho Liên Sô và Trung Quốc.
Lê Duy San
VIỆT CỘNG CÒN ĐỘC ÁC, DÃ MAN
VÀ TÀN BẠO HƠN CẢ ISIS
Lê Duy San
ISIS là 4 chữ viết tắt của Islamic State of Iraq and Syria (Nhà Nước Hồi giáo Iraq và Syria) được thành lập để chống lại chính phủ Iraq theo Hồi giáo Shia và thân Mỹ. Trong những vùng đã bị quân Hồi giáo ISIS chiếm đóng rất ít tin tức được lọt ra ngoài. Nhưng sở dĩ người ta biết được sự dã man, tàn bạo của chúng là do những tin và hình ảnh giết người do chính chúng đưa ra tuy rất ít nhưng đủ nói lên phần nào cái dã man tàn bạo của chúng. Trái lại, bọn Việt Cộng còn dã man, tàn bạo hơn bọn ISIS nhiều. Nhưng vì chúng khéo che dấu nên ít người biết tới.
Sau đây, xin kể lại cái chết của hai sinh viên Việt Nam đã đi theo Việt Cộng rồi từ bỏ chúng đã bị chúng lên án tử hình và hạ sát như thế nào cùng cái chết của một viên chức xã ấp và cái chết của 2 sĩ quan VNCH.
Vụ thứ nhất: Con ông Thẩm Phán Nguyễn Vạng Thọ.
Thời Đệ Nhất Cộng Hoà, Ông Nguyễn Vạng Thọ nguyên là Chánh Án toà Hoà Giải Rộng Quyền tỉnh Rạch Giá, sau là tỉnh Kiên Giang. Năm 1959, ông được Tổng Thống Ngô Đình Diệm đồng hoá cấp bậc Đại Tá và cử làm Chánh Thẩm Tòa Án Quân Sự Mặt Trận. Ông Thọ được Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban cho thanh gươm lịnh “Tiền Trảm hậu tấu”. Đây là một toà án Đặc Biệt được thành lập theo luật số 10/59 nhằm xét xử trong 3 ngày các tội ác chiến tranh chống lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Ông Nguyễn Vạng Thọ có một người con trai duy nhứt được cho đi du học theo kế họach Colombo ở Úc. Cậu này bị nhóm Đoàn Kết, một nhóm sinh viên Việt Cộng ở Úc dụ dỗ nhập bọn.
Khi cậu ta về nghỉ hè ở Việt Nam ông bà Thọ thấy con ăn nói khác thường, sặc mùi cộng sản. Gặng hỏi mãi mới biết con mình bị nhóm sinh viên Việt Cộng kia nhồi sọ và dụ dỗ gia nhập. Ông bà Thọ đã phải vất vả để tẩy não đầu óc non dại của cậu con và lập tức chuyển cậu ta qua Canada để tiếp tục học. Cậu ta đã nhận ra ngón đòn nhồi sọ, bóp méo sự thật của VC nên không gia nhập họat động với SV đòan kết Canada như năm trước ở Úc. Nhưng bọn chúng vẫn không tha. Chúng nó theo dõi con trai của Ông Thọ đến tận chỗ trọ học ở Canada. Bọn chúng gồm cả 7 đứa dụ khị cậu ta ra công viên vắng vẻ nói là để trao đổi học hành rồi bất thình lình chúng dùng búa Tamahawk (1) để giết chết cậu ta.
Búa Tamahawk
Chúng bao vây, đập đầu giết chết con ông Nguyễn Vạng Thọ. Xong chúng còn chặt đầu nạn nhân, chắc chúng sợ nhỡ nạn nhân tỉnh lại thì sự việc sẽ bại lộ, nên chúng chặt đứt dầu nạn nhân cho chắc ăn.
Khi đem xác về Saigon chôn, bọn Việt Cộng còn nhắn tin đe dọa gia đình phải âm thầm chôn cất, chúng hâm dọa sẽ giết cả nhà nếu tin tức được loan tải trên báo chí.
Đây không phải là giết con để trả thù bố vì nếu muốn trả thù thì chúng đã giết ngay khi cậu ta còn ở Úc mà chỉ là giết người để cảnh cáo cho những ai đã theo chúng nhưng rồi lại bỏ chúng.
Vụ thứ 2: Con ông Thẩm phán Trần Thúc Linh.
Ông Trần Thúc Linh cũng là một Thẩm phán từ thời Đệ Nhất Cộng Hoà. Ông còn là Tổng Thư ký Liên Minh Các Lực lượng Dân tộc Dân Chủ và Hòa bình Việt Nam của Luật sư Trịnh Đình Thảo. Đây là một lực lượng do Cộng sản giật dây.
Ông Trần Thúc Linh có mấy người con học rất giỏi, trong đó có Trần Quốc Chương, sinh viên Đại Học Y Khoa Saigon. Có lẽ anh bị ảnh hưởng của người cha phần nào, do đó có một thời gian Chương đã vào Bưng theo Việt Cộng. Sau anh ta về Thành (Saigon). Nhờ thế lực của bố là thẩm phán nên không bị công an bắt giữ và làm khó dễ. Anh vẫn được đi học lại. Một hôm có hai thanh niên lạ mặt tới trường tìm gặp Chương rồi thấy Chương rớt từ lầu hai xuống đất chết.
Sau khi Chương bị chết, cảnh sát mở cuộc điều tra, nhưng không ra nguyên do cái chết của sinh viên Trần Quốc Chương.
Có người cho rằng phe quốc gia giết Chương để dằn mặt ông Linh vì ông Linh thân Cộng và đang làm công cụ cho Cộng sản. Giả thuyết này không vững, vì thiếu gì trí thức miền Nam làm tay sai đắc lực cho Việt Cộng như luật sư Trần Ngọc Liễn, luật sư Ngô Bá Thành, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh, giáo sư Đại Học Khoa Học Nguyễn Đình Ngọc, nhà văn Vũ Hạnh v.v.. Vậy mà bản thân họ, chứ đừng nói tới con cái họ, vẫn không bị bạc đãi gì, vẫn hưởng bổng lộc Quốc gia và vẫn thoải mái chống chính quyền Quốc gia! Vậy không lẽ chính quyền Quốc gia lại chỉ thanh toán con ông Trần Thúc Linh?
Theo bác sĩ Lê Văn Sắc, người học cùng thời với Trần Quốc Chương cho biết thì hôm đó là ngày thi môn Ký Sinh Trùng (parasitology) của BS Đỗ Thị Nhuận và Vi Trùng Học (bacteriology) của BS Vũ Quý Đài và Chương bị rớt từ lầu 2, khu Sinh Hoá của BS Bùi Duy Tâm. Trong một buổi học, tại Đại Giảng Đường, ngồi bên cạnh Vũ Thị Manh Nha (cháu gọi BS Phạm Vận, chỉ huy phó Trường Quân Y lúc đó), tự dưng Manh Nha hỏi tôi: “Anh Sắc có biết tại sao anh Trần Quốc Chương bị giết không?” Thực sự theo cách giết, tôi biết đó là vụ thanh toán chính trị, mà ở Miền Bắc Việt Nam thường xẩy ra, do Việt Cộng chủ trương, nhưng tôi cũng trả lời: “Không biết”. Vũ Thị Manh Nha bèn bảo: “Nguyên do là anh Chương ra mật khu theo Việt Cộng, bỏ về nên tụi nó giết để bảo toàn bí mật đường dây và cảnh cáo những người đã theo chúng mà lại bỏ chúng về thành”.
Vậy chỉ có thể là chính Việt Cộng thanh toán Trần Quốc Chương. Vì việc bỏ bưng về thành của Chương không có sự chấp thuận của bưng biền là một sự đào thoát. Một khi đã đào thoát, tức là phản bội. Hoặc giả, trong bưng bọn Việt Cộng đã giao cho Chương một công tác nào đó mà Chương không chấp hành. Như thế cũng là bất tuân lệnh của “tổ chức”. Đó là những tội phải bị trừng trị để làm gương (2).
Trên đây chỉ là hai trường hợp điển hình cách giết người hết sức dã man trong hàng trăm trường hợp giết người khác nhau của bọn Việt Cộng đối xử với những người đã theo chúng rồi lại bỏ chúng. Vì thế, những kẻ đã đi theo Việt Cộng, nhất là những kẻ đã vào đảng, những kẻ đã sinh ra và lớn lên trong thời còn chiết tranh, họ đã biết thế nào là sự trả thù của Việt Cộng nên họ rất sợ sự trả thù của Việt Cộng. Do đó chúng ta không lấy làm lạ khi thấy những kẻ gọi là phản tỉnh hay bất đồng chính kiến, mặc dầu đã ra được ngoại quốc sinh sống, họ vẫn không dám có một thái độ, một lập trường dứt khoát với chế độ cộng sản Hà Nội. Đừng đòi hỏi qúa đáng đôi với những người phản tỉnh hay bất đồng chính kiến một khi họ được Việt Cộng cho ra ngoại quốc sinh sống. Họ còn cha mẹ, vợ con còn ở lại trong nước. Biết đâu trước khi đi họ còn phải cam kết sẽ thi hành một nhiệm vụ nào đó cho chúng.
Vụ thứ 3: Cái chết của gia đình một Xã Trưởng ở tỉnh Định Tường.
Trong một bài phỏng vấn của Việt Hà, phóng viên đài RFA, ông Uwe Siemon-Netto, ký giả nổi tiếng người Đức, đã trải qua 5 năm phục vụ tại chiến trường Việt Nam. Sau khi theo một đơn vị QLVNCH hành quân giải vây một ngôi làng thuộc tỉnh Định Tường (?) bị Việt Cộng khủng bố năm 1965, ông đã chứng kiến cảnh tượng dã man mà bọn Việt Cộng đã sát hại cả một gia đình viên Xã Trưởng. Ông kể lại như sau: “Người trưởng làng cùng vợ và 11 người con của ông bị treo trên cây, bị giết hại một cách kinh khủng, bộ phận sinh dục của ông bị cắt, lưỡi bị cắt và bị nhét vào mồm. Ngực của vợ ông ta bị cắt. Tất cả bị treo trên cây vào buổi đêm. Đây là cách mà họ cảnh cáo người dân trong làng không nên hợp tác với chính phủ Sài Gòn. Tôi biết chi tiết vì tôi đã vào đó”.
Cảnh tượng trên đây cũng đã được ông Uwe Siemon-Netto ghi lại trong cuốn “Đức, A reporter’s love for a wounded people, Uwe Siemon-Netto, page 77, 78” như sau: “Xác xã trưởng, cùng nguời vợ và 12 đứa con vừa trai, vừa gái kể cả cháu bé bị treo lủng lẳng trên các cành cây sào trong sân làng… Dân làng kể lại, họ bị VC bắt tập họp lại để chứng kiến cảnh tàn sát này. Việt cộng bắt đầu giết em bé nhất rồi lần lượt giết các em lớn hơn, kế tới người mẹ và sau cùng là nguời cha, viên xã trưởng. Việt cộng đã giết cả nhà 14 nguời, giết một cách lạnh lùng như thể bấm cò súng đại liên bắn máy bay…”.
Vụ thứ 4: Cái chết của nhà văn Y Uyên.
Y Uyên, tên thật là Nguyễn Văn Uy , sinh năm 1943 tại làng Dục Nội, huyện Đông Anh, Hà Nội. Năm 1954 anh cùng với gia đình di cư vào Nam, cư ngụ tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.
Anh tốt nghiệp trường Quốc gia Sư phạm Sài Gòn năm 1964, dạy học tại Tuy Hòa. Năm 1968 động viên khóa 27 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Mãn khóa anh được chuyển về đóng tại Nora, Phan Thiết. Không lâu sau đó bỏ mình trong trận phục kích bên dòng suối dưới chân núi Tà Lơn, tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết ngày 8.1.1969, hưởng dương 27 tuổi
Là trai thời chiến, lại là một người lính chiến, thì chuyện gục ngã nơi sa trường là chuyện thường. Nhưng cái chết của chuẩn úy Nguyễn Văn Uy không phải là một cái chết bình thường. Đoạn văn trích dẫn dưới đây là của bạn bè nhà văn Y Uyên nói về cái chết bi thảm của anh do bọn lính Việt Cộng đã gây cho anh. Xin trích một đoạn trong bài “Núi Tà Dôn và dấu chân Uy” của Lê Văn Chính (Sương Biên Thùy) đã đăng trong Tạp Chí Văn, số 129, phát hành ngày 1 tháng 5 năm 1969 – Tưởng Nhớ Y Uyên.
“Tôi nghĩ Uy sẽ không bị chết nếu bị bắt, nếu Uy biết cách nói cho những người ở phía bên kia biết Uy là một nhà văn. Tôi cũng nghĩ đến trường hợp, sau khi bị bắt, Uy sẽ được ra Hà Nội, và guồng máy tuyên truyền phía bên kia sẽ khai thác nhà văn của chúng ta. Nhưng tất cả những điều tôi tưởng tượng đều trái ngược với thực tế, một thực tế phũ phàng, tàn nhẫn: Y Uyên, sau khi chết rồi, còn bị bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai và đâm bồi thêm mấy nhát dao ở hai cánh tay và hai bên hông.”
“Tôi không có mặt khi bạn hữu tẩm liệm chàng, nhưng Học nói lại những nhận định như thế khi quan sát xác chết với những đầu đạn, dấu dao trên mình chàng. Có những dấu đạn người ta biết được là từ đâu, như thế nào, và ngươi ta cũng biết được những dấu đạn nào là vô ích, là của hận thù. Trên thân xác của Uy, khi chở về Quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê gớm, những chất ngất căm hờn, thì không thể làm sao tìm ra lý do giải thích sự hiện diện của chúng trên thân hình một người đã chết.”
“Từ những dấu đạn vết dao đó, tôi có một nhận định về những người ở bên kia chiến tuyến. Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, ròng rã hơn hai mươi năm này, những người lãnh đạo cộng sản đã dạy cho binh lính của họ như thể nào để lòng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên đạn thứ nhất là hợp lý – Ừ, thì cứ cho là hợp lý. Nhưng những viên đạn bắn bồi, những nhát dao đâm thêm trên một xác thân đã chết là những viên đạn, những nhát dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người Cộng sản Việt Nam đã làm những điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận, từ sự cuồng tín. Từ đó, chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không mảy may hiểu về những căn nguyên cuộc chiến tương tàn này.”
Vụ thứ 5: Cái chết của gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn.
Vào sáng ngày mồng 2 tết Mậu Thân 1968, tên đặc công Việt Cộng Nguyễn Văn Lém tự Bẩy Lốp chỉ huy một đơn vị đặc công tấn công trại Phù Đổng của binh chủng Thiết Giáp ở Gò Vấp. Sau khi chiểm được trại gia binh, Bảy Lốp bắt giữ gia đình Trung Tá Nguyễn Tuấn và bắt Trung Tá phải chỉ dẫn cách xử dụng các xe tăng còn để lại trong trại. Trung Tá Tuấn từ chối, thế là Bảy Lốp giết chết toàn thể gia đình ông, gồm cả một bà mẹ già 80 tuổi. Chỉ có một bé trai 10 tuổi bị giết nhưng chưa chết được cứu sống.
Ông Cao Hồng Lê, tác giả bài “Đón Xuân này, tôi nhớ Xuân xưa” (3) cho biết : “Một Trung Úy Thiết Giáp đưa Tướng NN Loan vào Trại Gia Binh để ông Tướng thấy cảnh vợ con binh sĩ ta bị VC sát hại. Sau khi đến thăm một số nhà binh sĩ có người bị VC giết, nhiều xác người chưa được mang đi, còn quàn tại chỗ, Tướng Loan nói ông có người bạn cùng khóa là Đại Tá Tuấn, Binh Chủng Thiết Giáp, đã giải ngũ nhưng không có nhà riêng ở ngoài thành phố, nên cả gia đình vẫn ở trong Trại Gia Binh này. Ông bảo ông Trung Úy Thiết Giáp đưa ông tới nhà Đại Tá Tuấn. Tôi đi theo đến một hầm trú ẩn. Hầm này vốn là cái xác của chiếc xe M113 đã phế thải, Đại Tá Tuấn xin về đặt bên cạnh nhà, đắp thêm bao cát bên ngoài, cho vợ con ông làm hầm tránh pháo kích của bọn VC”.
“Khi mở cửa hầm ra thì… tôi rởn tóc gáy trước cảnh tôi nhìn thấy cả gia đình Đại Tá Tuấn vẫn còn nằm trong hầm. Máu ngập cao cả chục phân tây, kín cả cái sàn xe thiết vận xa phế thải. Trong vũng máu là 8 xác chết, đủ cả đàn ông, đàn bà, trẻ con, người nào cũng bị chém đầu lìa khỏi cổ. Cả đến đứa cháu ngoại, mới 3 tuổi của Đại tá Tuấn về ăn Tết với ông Ngoại cũng bị VC chặt đầu”.
Đám tang cả gia đình Trung tá Nguyễn Tuấn bị tên đặc công Lém giết.
Vụ thứ 6: Cái chết của Giáo Sư Nghiêm Thẩm.
Giáo sư Nghiêm Thẩm sinh năm 1920 tại huyện Đông Anh tỉnh Vĩnh Yên, nay thuộc Hà Nội. Ông là con thứ 5 của cụ Nghiêm Hoàn Luyến. Anh em ông có người làm Phó Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, như giáo sư Nghiêm Đằng, có người làm Đại Sứ VNCH tại Malaysia, Jordan, New Zealand như ông Nghiêm Mỹ. Sau khi tốt nghiệp Trung học ở Hà Nội, ông sang Pháp, học trường École du Louvre, Paris, ngành bảo tàng học (de Muséologie).
Năm 1956, ông về nước. Ông phục vụ tại Viện Khảo cổ Sài Gòn, đặc trách khai quật di tích lịch sử, hướng dẫn các phái đoàn đi nhiều nơi ở miền Nam để khai quật những di chỉ khảo cổ.
Năm 1961, được bầu làm thành viên Hội đồng điều hành khóa 10 Hội Tiền sử Viễn Đông (Far Eastern Prehistory Association – FEPA). Cũng trong năm này, ông được mời làm giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định. Ông cũng là Giám đốc Viện Bảo tàng Sài Gòn.
Ngoài ra, ông còn được mời làm Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn và giáo sư tại Đại học Vạn Hạnh lúc mới được thành lập; đồng thời, được mời làm cố vấn xây dựng chùa Vĩnh Nghiêm, giảng dậy tại trường Đại học Chiến Tranh Chánh Trị Đà lạt, Quản thủ Viện Bảo tàng Quốc gia Sài Gòn, Ủy viên Ủy ban Khoa học Nhân văn của Hội đồng Quốc gia Khảo cứu khoa học Việt Nam Cộng hòa.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, Gs. Nghiêm Thẩm ở lại và tiếp tục việc giảng huấn như trước. Ông là một nhà giáo chân chính. Ông nổi tiếng là một vị giáo sư cương trực, trọng danh dự của một nhà giáo. Cuộc sống của giáo sư Nghiêm Thẩm tuy thanh bạch về của cải vật chất, song trong căn nhà ông, chất chứa cả một kho tàng văn hóa vô giá. Chỉ cần phát mại một pho tượng đồng đen hay một chiếc bình cổ không thôi, ông đã có thể kiếm được một món tiền khá lớn, đấy là chưa kể đến tủ sách hiếm qúy của ông.
Giáo sư Đỗ Khánh Hoan cho biết: “Giáo sư Nghiêm Thẩm chỉ miệt mài nghiên cứu và giảng dậy, không bao giờ dính dáng chuyện chính trị.”
Sau 30.4.1975, ai cũng nghĩ, một người luôn luôn xa tránh chính trị như giáo sư Nghiêm Thẩm, chắc sẽ được sống an thân dưới chế độ mới. Không ngờ, cuối tháng 11 năm 1979, giáo sư Nghiêm Thẩm bị giết chết một cách tàn ác tại nhà riêng số 29/27 Nam Kỳ Khởi Nghĩa (tên cũ: đường Công Lý), phường 8, quận 3, Saigon.
Theo sự tường thuật của Linh mục. Vũ Đình Trác thì vụ sát hại Giáo sư Nghiêm Thẩm xẩy ra vào lúc 11 sáng. Thủ phạm là 2 tên lạ mặt. Chúng tông cửa vào nhà và móc súng ra, uy hiếp giáo sư Nghiêm Thẩm và yêu cầu phải giao ra chiếc búa khảo cổ của ông. Khi lấy được chiếc búa khảo cổ, một tên dùng chính chiếc búa khảo cổ đập 3 búa lên đầu giáo sư, rồi chúng tẩu thoát cùng với chiếc búa của giáo sư Nghiêm Thẩm nhưng không hề lấy một món đồ vật qúy giá nào. Gs. Nghiêm Thẩm nằm chết trên vũng máu. Lúc xẩy ra án mạng, bà Ngô Thị Dung (người vợ sau của giáo sư Nghiêm Thẩm) không có ở nhà chỉ có cô cháu lén nhìn trộm thấy mọi diễn biến. Cô cháu vội đi tìm bà Ngô Thị Dung. Công an tới lập biên bản và niêm phong tủ sách của giáo sư.
Linh Mục Vũ Đình Trác cho biết giáo sư Nghiêm Thẩm có tâm sự với Linh Mục chuyện Tổng Bí thư đảng CSVN Lê Duẩn, với sự tháp tùng của Nguyễn Tuân, đã vào Nam và cho mời Giáo sư Nghiêm Thẩm tới khách sạn Majestic đãi đằng và khen ngợi ông, rồi “đưa đơn đặt hàng” cho ông. Cuối bữa tiệc thịnh soạn, Lê Duẩn nói với Giáo sư Nghiêm Thẩm: “Anh Nghiêm Thẩm, chắc anh biết: cả thế giới đang coi Việt Nam mình như “đỉnh cao trí tuệ loài người” mà anh cũng được vinh dự ấy. Việt Nam chúng ta phải làm chủ miền Đông-Nam-Á này. Mọi yếu tố làm chủ hầu như đã đầy đủ, chỉ còn thiếu một điều…Từ trước tới nay, mấy thằng chép sử “nhãi ranh’ vẫn cho rằng: nguồn gốc các sắc tộc miền Đông-Nam Á-Châu này là Mã Lai hay Indonesien. Đại Nga-xô mới tìm được ít dấu vết chứng tỏ rằng Việt Nam chúng mình mới là thủy tổ. Chúng ta đang làm lại lịch sử Đông-Nam Á-Châu. Khoa nhân chủng học và khảo cổ của ta lúc này đang phát đạt vô biên, nên anh phải nắm lấy cơ hội này, với uy tín sẵn có của anh, anh phải viết một bài lớn, thẩm định lại: Dân Việt Nam là thủy tổ các dân tộc Đông-Nam Á-Châu. Như thế mới đúng ý nghĩa của “Đỉnh cao trí tuệ loài người” và mới xứng đáng tài năng hiếm có của anh”.
Tôi im lặng một phút…rồi trả lời hắn: “Uy tín của tôi lúc này là nói đúng và nói thật. Theo các tài liệu khoa học hiển nhiên, nhất là khoa khảo cổ học và nhân chủng học quá rõ ràng, tôi không thể viết khác được. Viết như đồng chí nói là phản khoa học”.
Hắn mỉm cười, bảo tôi: “Anh nói thế tức là còn đang ở trong vòng gò bó của sách vở, của óc đế quốc, của hủ lậu, chứ không theo sử quan một tí nào cả”.
Tôi cảm thấy tức đầy ruột…nên tôi hơi bạo lời: “Nếu tôi viết như thế, thì các nhà khảo cổ và nhân chủng học trên thế giới sẽ cho tôi và cả chế độ tôi phục vụ là con chó chết. Tôi không bao giờ làm chuyện sa đọa ấy”.
Lê Duẩn vẫn không lộ vẻ tức giận. Hắn hỏi tôi vắn tắt: “Anh nhất định không làm chuyện đó?”.
Tôi bỗng tìm được một danh từ xưng hô, trả lời hắn: “Tôi không thể đáp ứng yêu cầu của đàn anh trong việc này”.
Lê Duẩn ném cho tôi một cái nhìn có vẻ dữ tợn với câu nói cộc lốc: “Anh nhất định thế…Mong anh đổi ý”.
Tôi cũng nhìn thẳng vào mặt hắn, trả lời cương quyết: “Tôi không bao giờ đổi ý”.
Không ngờ đây lại chính là bản án tử hình mà Lê Duẩn đã dành cho giáo sư Nghiêm Thẩm, một nhà Khảo Cổ, một nhà Nhân Chủng Học chân chính, kiên cường và đáng kính.
Trên đây chỉ là sáu vụ điển hình trong trăm, ngàn vụ giết người một cách độc ác, dã man và tàn bạo của bọn Việt Cộng mà ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã dậy chúng. Điều ngạc nhiên và đáng thắc mắc ở đây là không hiểu tại sao ông Trần Thúc Linh, một trí thức, có con là anh Trần Quốc Chương bị Việt Cộng giết bằng cách xô đẩy anh từ lầu hai xuống đất và 2 em của anh Nguyễn Văn Uy tức nhà văn Y Uyên là Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Văn Hương (có cha bị Việt Cộng lên án tử hình khiếm diện) đã hưởng nhiều ân huệ của VNCH, có con, có anh bị Việt Cộng giết dã man như vậy lại có thể cúi đầu nhẫn tâm làm tay sai cho giặc Cộng ?
Lê Duy San
Chú thích.
(1) Tomahawk, một loại búa nhỏ mà người da đỏ hay xử dụng trong các phim, ném rất xa để giết địch thủ.
(2) Theo bác sĩ Lê Văn Sắc, năm 1975-1976, khi BS Văn Văn Của là Trưởng Khu Y Khoa Cộng Đồng bị đi học tập cải tạo, còn BS Phó Khu Dương Trọng Thiều (em song sinh của BS Dương Trọng Cư) thì đã quay kịp về Mỹ, không bị ở lại để đi học tập cải tạo (!!!). Lúc đó, tôi là xử lý thường vụ Khu Y Khoa Cộng Đồng, thường phải lên văn phòng về các việc hành chánh, có lần cô Huê (thư ký) tự dưng hỏi tôi: “Anh Sắc có biết Ủy Ban Quân Quản đã ra lệnh cho em phải đưa hồ sơ của Trần Quốc Chương, để họ duyệt xét, tính phong liệt sỹ, nhưng sau biết vụ này là do họ làm nên đóng hồ sơ luôn”. Hiện tại thì Dương Văn Đầy (nghe BS Vũ Trọng Tiến bảo nghe bạn bè trong nước báo) đã bị Việt Cộng thanh toán, đầu độc, chết rồi, nhưng hiện còn hai, ba bạn cón sống là Nguyễn Huy Diễm, Huỳnh Tấn Mẫm và Vũ Công, các bạn có thể lên tiếng cho biết có phải chính Dương Văn Đầy đã giết bạn Trần Quốc Chương và GS Trần Anh không? Nghe nói chính Dương Văn Đầy đã khoe là đã ám sát GS Trần Anh.
(3) CON ONG, bán Nguyệt San ấn hành tại Houston, Texas, số 179, tháng 2, 2006.
CÁI NHỤC LỚN NHẤT
CỦA MỘT DÂN TỘC
LÀ CÓ MỘT CHÍNH QUYỀN HÈN NHÁT.
Luật Sư Lê Duy San
Nhiều người nghĩ rằng cái nhục lớn nhất của một dân tộc là cái nhục mất nước. Điều này không đúng hẳn. Nước nhỏ, dân ít, bị một nước lớn, dân đông, xâm chiếm là điều thường xẩy ra trên thế giới, nhất là vào thời kỳ khoa học, kỹ thuật chưa được tiến bộ. Vấn đề quan trọng là dân tộc đó có ý chí, có quyết tâm để tìm cách lấy lại chủ quyền hay không. Chỉ khi nào dân tộc đó cam chịu số phận mất nước, không có ý chí phục thù, không có quyết tâm giành lại độc lập, mới gọi là nhục.
Nước ta bị người Tầu đô hộ một ngàn năm và bị người Pháp đô hộ gần 100 năm, nhưng dân tộc ta không bao giờ chịu nhục. Lúc nào dân tộc ta cũng tìm cách nổi dậy để đánh đuổi người Tầu, người Pháp ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập cho đất nước và lấy lại chủ quyền cho dân tộc. Nhưng có độc lập, có chủ quyền mà đất bị lấn bị chiếm, biển bị xâm phạm mà chính quyền lại hèn nhát, không dám liên tiếng, thì qủa là một cái đại nhục cho dân tộc.
Ngày 19/1/74, trong khi Hải Quân của Việt Nam Cộng Hòa tử chiến với quân xâm lược Trung Cộng để bảo vệ Hoàng Sa thì ngụy quyền Việt Công Hà Nội im hơi lặng tiếng một cách hèn hạ, không một lời phản đối Trung Cộng.
Ngày 2/12/07, Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập một quận lỵ lấy tên là Tam Sa trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam để trực tiếp quản lý cả hai quần đảo này, ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam cũng chỉ dám phản đối một cách yếu ớt qua lời tuyên bố của Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngọai Giao Cộng sản Việt Nam, rằng “”Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, và rằng “Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên”.
Ngày 16/5/09, Trung Cộng đã thính thức ra lệnh cấm đánh cá đặc khu kinh tế khổng lồ bao quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, không phải cả các vùng đang bị tranh chấp mà cả các vùng mà Việt Nam có chủ quyền. Là cơ quan hành pháp, đại diện cho một quốc gia, đứng trước hành động hỗn xựợc này của Trung Quốc, đúng lý ra, bộ Ngoại Giao Việt Nam phải cho mời Đại Sứ Trung Quốc tới để phản đối hoặc gửi công hàm phả đối với lời lẽ thật mạnh mẽ và cương quyết như “vi phạm chủ quyền của Việt Nam” “xâm phạm lãnh hải Việt Nam” và “yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền Việt Nam, lãnh hải của Việt Nam cũng như quyền đánh cá của ngư dân Việt Nam”.
Theo phát ngôn viên của chính quyền Việt Cộng thì bộ Ngoại Giao Việt Cộng đã yêu cầu Đại Sứ Trung Quốc tại Hà Nội kêu gọi chính phủ Bắc Kinh ngừng các hoạt động trên biển. Nhưng thực ra chính quyền Cộng Sản Việt Nam không những đã không dám phản đối mà chỉ xin xỏ một cách hèn hạ như “đề nghị phía Trung Quốc không nên có các hoạt động cản trở hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam” hoặc “việc Trung Quốc tăng cường tuần tra sẽ dẫn tới có thêm nhiều vụ bắt bớ ảnh hưởng tới các hoạt động đánh bắt cá bình thường của ngư dân Việt Nam tại khu vực đánh bắt cá truyền thống của Việt Nam”.
Thế nào là “khu vực đánh bắt cá truyên thống” ? Phải chăng đó là ngôn từ ngoại giao của bè lũ bán nước Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Văn An ? Ôi, nghe sao mà hèn hạ vậy? Nếu không dám dùng những danh từ dao to, búa lớn, những danh từ sặc mùi khác mắu mà bọn mi đã dùng trong thời gian xâm chiếm miền Nam thì ít nhất cũng phải dùng những chữ cho rõ nghĩa, cho đúng với ngôn từ của một quốc gia độc lập và có chủ quyền như: “không được có những hành động cản trở những hoạt động bình thường của ngư dân Việt Nam” hoặc “không được xâm phạm tại khu vực đánh cá thuộc chủ quyền của Việt Nam” v.v…. Đúng là phương khôn nhà dại chợ, chỉ quen áp bức dân lành.
Hèn mạt, không dám phản đối quan thày Trung Quốc, nhưng lại sợ lòng yêu nước của người dân nổi dậy, bọn lãnh đạo hèn nhát Việt Cộng quay sang tìm cách dàn áp những người bất đồng chính kiến để bịt miệng, đúng như tờ báo chui, “Báo Sinh Viên Yêu Nước” của anh em Sinh Viên trong nước đã nhận định trong cố báo thứ 5: “Thời gian qua, sự kiện Trung Quốc khai thác Bauxit ở Tây Nguyên còn đang bi dư luận phản đối. Vụ ngư dân Việt Nam đã không dám đánh cá vì bị tàu Trung Quốc tấn công. Vụ lãnh hải Việt Nam bị thu hẹp vì Trung Quốc dùng sức mạnh bá quyền công khai áp lực. Vụ luật sư Cù Huy Hà Vũ dám ra mặt kiện Nguyễn Tấn Dũng. Trước áp lực dư luận có nguy cơ bùng nổ, phô bày bản chất yếu hèn, phản động của đảng CSVN trước tham vọng xâm lăng Việt Nam của Trung Quốc. Hà nội quyết định bắt luật sư Lê Công Định cũng là cách để chuyển dư luận chống đối sang ngã rẻ khác, vừa răn đe thành phần đấu tranh dân chủ, vừa nhắn nhủ giới luật sư, trí thức, thanh niên sinh viên Việt Nam đang manh nha hình thành lực lượng nhằm phản đối vụ khai thác Bauxit và những quyết định bạc nhược, hèn yếu của Chính trị bộ đối với quan hệ Trung – Việt.
Hẳn chúng ta còn nhớ, cách đây gần 2 năm, sau khi biết tin Trung Cộng công khai xân chiếm hai quần đào Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam và sát nhập vào một quần đảo khác của Trung Cộng để thành lập một quận lỵ lấy tên là Tam Sa, các học sinh và sinh viên Việt Nam cùng đồng bào trong nước đã tổ chức 2 cuộc biểu tình vào ngày 9/12/07 tai Saigon và Hà Nội để phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc. Bọn nguỵ quyền Cộng Sản Hà Nội, không những không ủng hộ hay khuyến khích mà lại còn bắt bớ, cấm đoán và hăm dọa. khiến một nữ sinh viên qúa uất ức đã vừa khóc vừa la: “Chúng cháu đến đây để thể hiện lòng yêu nước của mình…tai sao lực lượng an ninh lại ngăn cản lòng yêu nước của chúng cháu…? ngăn chặn chúng cháu lại và không cho chúng cháu vào tham gia cùng mọi người…? Taị sao? Tại sao?. Và một thanh niên khác, không dằn được sự tức giận, đã hiên ngang đập mạnh tay xuống bàn và la lớn: “Các ông chỉ biết lo cho cái ghế của các ông, các ông chỉ biết tham nhũng”.
Thật là một điều nghịch lý khi những nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam gán cho những người Việt Nam yêu nước dám bầy tỏ thái độ, lập trường của mình trước những vến đề lien quan đến sự tồn vong của đất nước, của dân tộc lại bị gán cho những tôi danh như “xâm phạm an ninh quốc gia”, “lợi dụng quyền tự do, dân chủ để xâm hại quyền lợi nhà nước” để bỏ tù những người yêu nước như nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, nhà giáo Vũ Hùng, sinh viên Nguyễn Tiến Nam cho tới các bloggers Điếu Cày Nguyễn Hoàng Hải, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Người Buôn Gió Bùi Thanh Hiếu, rồi nhà báo Phạm Đoan Trang, cùng nhiều người khác nữa có tâm huyết với đất nước đã không tránh khỏi cảnh tù tội hay những sự trù dập, đàn áp dã man.
Ngày nay chúng ta đã thấy, người dân đã dám bàn chuyện chính trị, dám phê phán chính quyền công khai, không còn dè dặt và sợ hãi như những năm trước nữa. Nhiều người còn dám rủ nhau đi kiện, đi biểu tình phản đối những vụ chính quyền trưng dụng nhà cử đất đai của họ. Các anh em sinh viên cũng đã dám ra một tờ báo chui gọi lá Báo Sinh Viên Yêu Nước để bầy tỏ thái độ và các trí thức trong nước cũng đã dám công khai bầy tỏ lập trường, họ không còn sợ hãi trước sự hù dọa hay sự bắt bớ, giam cầm, bỏ tù một số người chống đối của ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam. Một vài luật sư đã dám tranh luận thẳng thừng với các chánh án Việt Cộng để bênh vực cho thân chủ trong các vụ án có liên can tới chính trị. Nhưng số người này còn quá ít ỏi, vẫn chưa đủ, cần phải đông đảo hơn nữa, tích cực hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa cho tới khi nào chế độ Cộng Sản Việt Nam bán nước phải cáo chung.
Một người dân trong nước cũng viết: “Tôi bần thần tự hỏi, chính quyền hiện hành có còn là chính quyền của dân tộc VN hay không ? Tự hỏi để rồi ngầm trả lời :Không, không, không. Chính quyền này không phải là của dân tộc VN, mà là chính quyền của đảng cộng sản VN ! Tôi và bao bậc cha mẹ khác lẽ nào đưa con mình đi cầm súng để bảo vệ đảng nô lệ như thế này ??? Tôi đã rớt nước mắt. Tệ hại quá, tôi phải “nướng” con tôi cho lũ cầm quyền phản dân tộc này sao? Tôi sẽ phải làm thế nào ? Cầm súng bảo vệ đất nước thì tôi không sợ, cầm súng chống bọn xâm lấn Trung Cộng thì tôi sẵn sàng đưa con tôi lên đường ! Còn cầm súng, hi sinh con cái chúng tôi cho quyền lợi riêng của đảng cộng sản VN thì khác nào sự ngu xuẩn, hơn nữa, đó là sự nhục nhã !
Thật không có cái nhục nào to lớn bằng cái nhục của một dân tộc có một chính quyền hèn hạ và đốn mạt như chính quyền cộng sản Việt Nam ngày nay, một chính quyền bán nước hại dân, chỉ biết tham nhũng và hiếp đáp dân lành. Không những thế, bọn ngụy quyền Cộng Sản Việt Nam còn muốn tất cả dân tộc Việt Nam phải hèn nhát như bọn chúng. Vì thế nếu có người nào can đảm, dám biểu lộ lòng yêu nước và dám nói lên những việc làm sai trái, đốn mạt của bọn chúng, là bọn chúng tìm cách đàn áp và bắt giam như ta đã thấy. Không biết người dân còn chiụ đựng sự nhục nhã này tới bao giờ mới tìm cách lôi cổ bọn hèn nhát này xuống để trị tội?
QUYỀN LẬT ĐỔ CHẾ ĐỘ PHI NHÂN CHXHCNVN
CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
Lê Duy San
Chính quyền là do dân mà ra. Không có dân làm sao có nước ? Không có nước làm sao có chính quyền ? Bởi vậy, nếu chính quyền trở nên tồi tệ, không biết phục vụ cho người dân, bảo vệ quyền lợi và tính mạng của người dân, mà chỉ biết tham nhũng, hiếp đáp người dân thì người dân phải tìm cách lật đổ chính quyền để lập một chính quyền khác có lợi cho mình. Đó là quyền lật đổ chính quyền của người dân trong một nước.
I/ Nguồn gốc quyền lật đổ chính quyền của người dân.
a/ Trong học thuyết Nhân Trị Chủ Nghĩa của Khổng Mạnh.
Người cầm quyền xưa thường dựa vào lời nói: “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu“ của người xưa và đã hiểu theo nghĩa đen của từng chữ như sau: “Vua xử chết, mà (bầy tôi) kháng cự là bất trung. Cha bảo chết, mà (con) còn luyến tiếc cuộc đời là bất hiếu (không xứng đáng là đại trượng phu, là nam tử hán)“. Hai câu giáo điều này của Nho Giáo đã ngự trị ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa từ nhiều ngàn năm trước và đã được người cầm quyền thời đó tức các vua chúa ngày xưa căn cứ vào đó để trị nước một cách độc tài, độc đoán.
Thực ra thì mặc dù quan niệm Vua là Thiên Tử, nhưng theo Khổng Tử, DÂN cũng là con TRƠI, chỉ khác là VUA là con trưởng mà thôi (Phàm nhân giai vân Thiên chi tử Thiên tử vi chi thủ nhĩ). Không những thế, DÂN mới là người đáng qúy nhất (Dân vi qúy, Xã Tắc thứ chi, Quân vi khinh). Thực vậy, không có DÂN thì làm gì có nước ? Không có nước thì làm gì có vua ? Bởi vậy, dù là Thiên Tử, làm gì cũng phải theo ý trời mà ngày nay ta phải hiểu là ý Dân. Thuận theo ý TRƠI thì sống, nghịch ý TRƠI thì phải chết (Thuận Thiên gỉa tồn, nghịch Thiên gỉa vong).
Chính Đức Khổng Tử cũng đã từng hành xử như vậy. Chỉ có điều vì ngài chủ trương NHÂN TRỊ CHỦ NGHĨA, lại sống dưới chế quân chủ chuyên chế nên cách giải quyết của ngài để phế bỏ những ông vua tàn ác, bạo ngược không thể thuyết giảng công khai mà chỉ âm thầm nhưng vẫn không thiếu phần tích cực và dũng cảm. Đó là sự ra đi (treo áo từ quan) và tìm người khác xứng đáng hơn để phù trợ mà vẫn không mang tiếng là bất trung, là phản nghịch. Một khi những người tài giỏi đã bỏ ra đi hết thì chẳng sớm thì muộn, ông vua tàn ác bạo ngược kia cũng bị mất ngôi, mất nước.
Đọc chuyện Đức Khổng Tử bỏ nước Lỗ trong cuốn Ôn Cố Tri Tân, tập 2 trang 657 của Mộng Bình Sơn, chúng ta thấy Ngài đã được vua nước Lỗ là Lỗ Định Công mời về và phong cho làm Tướng Quốc. Ngài đã giúp cho vua nước Lỗ chỉnh đốn lại được kỷ cương trong nước khiến nước Lỗ mỗi ngày một cường thịnh. Nhưng khi ngài thấy Lỗ Định Công không còn xứng đáng là một vị vua nữa, và cũng không còn cách nào cải sửa được nữa vì đã bỏ mất điều LỄ nên ngài đã bỏ nước Lỗ ra đi, sang nước Vệ rồi nước Tống, tìm minh chủ để phò trợ. Ai dám bảo Đức Khổng Tử, một người đã đề ra thuyết Nhân Trị Chủ Nghĩa, lấy Tam Cương Ngũ Thường làm giường cột, là bất trung ?
Quan niệm của Đức Khổng Tử về Trung và Hiếu cũng như Quân, Sư, Phụ, lúc nào cũng phải dựa vào NHÂN, NGHĨA, LỄ, TRÍ và TÍN. Bởi vậy, không phải lúc nào cũng “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung. Phụ xử tử vong, tử bất vong, bất hiếu“. Câu này sở dĩ luôn luôn được nói tới trong thời phong kiến bởi vì thời nào cũng vậy, hôn quân, bạo chúa, gian thần, nịnh thần thì nhiều mà minh quân, anh quân, trung thần thì ít, nên bọn gian thần, nịnh thần luôn luôn nêu câu này lên để hãm hại trung thần.
Ngày nay, bọn Cộng Sản Trung Hoa và Việt Nam tuy bề ngoài thì đả phá chế độ quân chủ, phong kiến, nhưng cũng bấu víu vào hai chữ TRUNG và HIẾU của Khổng Tử để đàn áp dân chúng cũng như những người bất đồng chính kiến. Nhưng chúng đã sửa đổi một chút cho phù hợp với xu hướng của thời đại và nhu cầu của chế độ là TRUNG với ĐẢNG, HIẾU với DÂN“. Thực ra thì bọn chúng (bọn Cộng Sản Việt Nam) chỉ bắt DÂN phải TRUNG với ĐẢNG mà thôi, chứ làm gì có chuyện bọn chúng HIẾU với DÂN ? Nếu bọn chúng biết HIẾU với DÂN thì đâu có chuyện hàng triệu người phải bỏ nước ra đi để hàng trăm ngàn người phải bỏ xác ngoài biển cả ?
Là bầy tôi trung, phải hiểu là trung với nước, Vua hay Tổng Thống chỉ là người đại diện. Nếu không xứng đáng, người bầy tôi trung, nói riêng, công dân tốt, nói chung, không những có quyền mà còn có bổn phận đứng lên tìm cách phế bỏ hay đạp đổ. Liệu bọn Cộng Sản Việt Nam còn có thể tồn tại được đến bao giờ nếu chúng không thay đổi cách cư xử đối với dân và cách phụng sự đối với đất nước ? Người xưa thường nói: “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên gỉa vong. Thiên ở đây chính là lòng dân. Do đó, nếu chính quyền của một quốc gia không tạo được an sinh và hạnh phúc cho dân, mà chỉ tham nhũng và dùng quyền bính của mình để ức hiếp và áp chế người dân, người dân có quyền xử dụng quyền lật đổ chính quyền của mình để tạo lập một chính quyền khác, biết lo cho quyền lợi và hạnh phúc của mình hơn.
Đọc lịch sử Việt Nam, chúng ta thấy có nhiều bầy tôi đã hiểu chữ TRUNG, chữ QUÂN một cách tích cực như vậy, mà cụ Chu Văn An, cụ Nguyễn Trãi là những người điển hình.
b/ Trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.
Nguồn gốc thứ hai của Quyền lật đổ chính quyền của người dân cũng tiềm ẩn trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp, Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ và nhất là trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyên của Liên Hiệp Quốc.
Điều 21 bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã gián tiếp công nhận quyền lật đổ chính quyền của người dân qua quyền bầu cử và ứng cử của người dân như sau:
1. Mọi người đều có quyền tham gia vào việc điều hành xứ sở của mình, một cách trực tiếp hay qua các đại biểu được tuyển chọn một cách tự do.
2.Mọi người đều có quyền đón nhận những dịch vụ công cộng của quốc gia một cách bình đẳng.
3.Ý muốn của người dân phải là nền tảng của quyền lực chính quyền. Ý muốn này phải được thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và thực sự, bằng phiếu kín, qua phương thức phổ thông và bình đẳng đầu phiếu, hay các phương thức tương đương của bầu cử tự do.
II/ Các hình thức để thực hiện quyền lật đổ chính quyền.
a/ Các hình thức ôn hoà.
Tại các nước tự do, dân chủ, khi người dân bất mãn với chính quyền, họ thường xử dụng những quyền tự do đã được luật pháp công nhận như tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền bầu cử và ứng cử v.v. để tỏ bầy những sự bất mãn của họ và yêu cầu chính quyền phải sửa sai.
Nếu không được, họ sẽ dùng những quyền tự do khác, cũng được luật pháp công nhận, nhưng mạnh mẽ hơn để làm áp lực như quyền đình công, bãi thị, quyền mít tinh, biểu tình để yêu cầu các người đại diện của họ tức các dân biểu, nghị sĩ phải đưa các vấn đề mà họ yêu cầu ra trước quốc hội để chất vấn chính phủ (các bộ trưởng) và nếu cần, khiển trách hoặc đàn hạc (impeachment), kể cả Tổng Thống. Một Tổng Thống mà đã bị quốc hội đàn hạc thì dù có thoát tội, và không chịu từ chức thì cũng khó lòng mà có thể được tái cử trong nhiệm kỳ tới.
b/ Các hình thức bạo động.
Tại các nước theo chế độ độc tài, nhất là chế độ độc tài cộng sản, các quyền tự do như tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí v.v. đều bị cấm đoán hoặc nếu có đề cập tới, thì cũng chỉ là hình thức. Thí dụ như Điều 69 bản Hiến Pháp 1992 của Việt Cộng ghi: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”, nhưng rồi chúng lại đặt ra luật pháp để cấm đoán. Thí dụ như để ngăn cấm những quyền tự do này, Việt Cộng đã ghi vào bộ Hình Luật của chúng hai điều luật sau:
Điều 79, khoản 1 bộ Luật Hình Sự quy định “Người nào hoạt động thành lập hay tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì bị phạt như sau: Người tổ chức, người xúi dục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt từ từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.
Điều 88, Bộ Luật Hình sự Việt Nam quy định tội phạm gồm các hành vi: “Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nguời phạm tội có thể bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm. Nếu trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 mươi năm”.
Như vậy chúng ta chấy, mặc dù Hiến Pháp Việt Cộng tuy có đề cập tới các quyền tự do cũng bằng không. Làm sao người dân còn có thể lật đổ được chính quyền bằng các biện pháp ôn hòa? Người dân cũng không có thể yêu cầu các Dân Biểu hay Thượng Nghị Sĩ đưa Tổng Thống hay Chủ Tịch nhà nước ra trước Quốc Hội để mà chất vấn (question severely) hay đàn hạc (impeachment) vì họ (các dân biểu hay Thượng Nghị Sĩ) đều là người của Đảng (Cộng Sản), đại diện cho Đảng chứ không phải là người đại diện cho dân. Vì thế có thể nói rằng việc sử dụng các hình thức ôn hoà tại các nước theo chế độ độc tài để lật đổ chính quyền là điều bất khả thi. Vì thế người dân phải sử dụng những hình thức bạo động như biểu tình có bạo động, có đổ máu như hô những khẩu hiệu đòi hỏi những người lãnh đạo phải từ chức, quốc hội phải gỉai tán, đập phá, đốt xe cộ của công an, cảnh sát. Nếu bị công an, cảnh sát dùng những biện pháp mạnh như đánh đập người biểu tình thì người biểu tình phải chống đối lại bằng gạch đá, gậy gộc hoặc bằng bom xăng, đưa tới tình trạng bạo động đổ máu hoặc nội chiến gây nhiều tang tóc cho dân chúng, không thể lường trước được.
Việc sử dụng những hình thức ôn hoà chỉ hữu hiệu tại các nước dân chủ mà thôi. Bởi vậy tại các nước dân chủ thực sự, không bao giờ xẩy ra những cuộc cách mạng đổ máu. Trái lại, tại các nước độc tài quân phiệt hay độc tài Cộng Sản, nếu không có cuộc cách mạng đổ máu, thật khó mà có thể lật đổ được chính quyền của những nước này nhất là tại những nước theo chế độ Cộng Sản. Bởi vì mặc dầu những nước này cũng đã ký vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và cũng có ghi vào bản Hiến Pháp của họ. Nhưng trên thực tế, mọi quyền tự do đều bị cấm đoán. Không những thế, họ còn đặt ra những điều luật để hù dọa như điều 79, khoản 1 bộ Luật Hình Sự Việt Cộng. Điều khoàn này quy định “Người nào hoạt động thành lập hay tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân thì bị phạt như sau: Người tổ chức, người xúi dục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt từ từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” để hù họa những người muốn xử dụng “Quyền lật đổ chính quyền”.
Tóm lại, khi một chế độ không biết chăm lo săn sóc quyền lợi của người dân, không biết bảo vệ quyền lợi của người dân mà chỉ biết tham nhũng, hiếp đáp người dân, không biết lo cho tương lai của dân tộc, tiền đồ của đất nước thì người dân có quyền lật đổ chính quyền. Khi mà một chế độ chỉ biết vâng lời ngoại bang, nhượng đất, nhượng biển cho ngoại bang và gây ra không biết là bao nhiêu cảnh tang thương, chết chóc cho dân tộc như bọn lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam hiện nay đã làm thì đó là một chế độ phản dân, hại nước, người dân lại càng có lý do chính đáng lật đổ chúng để xây dựng một chế độ tốt đẹp hơn.
Vì thế việc lật đổ chính quyền Cộng Sản Việt Nam hiện nay, không những là một quyền tối thượng của người dân mà còn là một nhiệm vụ cao cả của người dân. Bọn lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam không thể vin vào bất cứ lý do gì để trừng phạt hay cản trở người dân yêu nước khi xử dụng quyền tối thượng này.
Bọn lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam hãy mau mau tỉnh ngộ, đừng để cuộc cách mạng đổ máu xẩy ra. Nếu không, chắc chắn sẽ không một lực lượng nào có thể ngăn chặn nổi sự giận dữ cuồng nộ của người dân. Chắc chắn lúc đó người dân sẽ, không những tìm những tên đầu xỏ Việt Cộng, những tên Công An Việt Cộng ác ôn để thanh toán mà còn thanh toán luôn cả các tên đảng viên cộng sản, các tên công an, và có khi cả các thân nhân của bọn chúng và cả những tên đã dựa hơi bọn chúng để làm giầu hay để ức hiếp dân lành.
Lê Duy San
*
Pingback:Những Chiếc “Huy Chương” Cho Người Con Việt Hải Ngoại – Mai Thanh Truyết – Tây Ninh